Tên di sản : Chùa Vồm và núi Bàn A

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di sản : Danh lam thắng cảnh

Sô quyết định : 4173/QĐ-UBND

Giới thiệu

Ở đây, có một bài thơ nôm không biết của ai làm tự bao giờ mà dân gian lúc nào cũng ngâm nga tâm đắc:

“Non xanh một cụm giăng màn 

Gió tung đôi giải tràng giang lộng buồm.

Voi đá thất sóng cũng chồm 

Rùa như muốn xuống dỡn nguồn nước trong.

Vọng đài bến cũ cờ giống

Um tùm cây đứng xa trông mịt mù. 

Nhà tranh thôn bé lặng lờ 

Chuông chùa nghe vẳng đâu bờ bên kia.

Chông chênh bãi n��i trâu quỳ

Tựa ghềnh ngư phủ chiều về ngóng mây…"

Bài thơ này hoàn toàn mô tả và ca ngợi 10 cảnh đẹp của Bàn A Sơn mà sách sử đã ghi chép. Có điều đây là bài thơ diễn ra nên 10 cảnh đẹp đó để các nghệ sĩ dân gian hò sông Mã ngân nga trên sông nước khi đi qua nơi này. Nếu ai đã từng đến đây thì mới thấm thía được ý nghĩa của từng câu thơ. Vì trong 10 câu đầu bài thơ đã chuyển tải và tả hết 10 cảnh đẹp như cảnh đẹp như vẽ, 10 cảnh đẹp như tranh. Và ai đi đến với Bàn A Sơn (núi Vồm) và nhìn ra xung quanh kề cận thì mới thấy cổ nhân đúc kết 10 cảnh đẹp ở đây mới đúng và chính xác làm sao. 10 cảnh đẹp đó là: “Khánh Bằng liệt chướng, Lương Mã song phàm, thạch tượng, lĩnh quy hí thủy, cổ độ kỳ đình, viền sầm yên thụ, cô thôn mạo xá, cách ngạn thiền lâm, sơn hạ, giang trung mạc phố”.

Còn chùa Vồm (tức chùa Đại Hùng) vừa là một thắng cảnh rất thơ mộng, vừa là một công trình kiến trúc nghệ thuật có giá trị được xây dựng từ năm 1460. Về quy mô kiến trúc, chùa vồm (tức chùa đại hùng) thuộc di tích có quy mô kiến trúc tương đối bề thế. Từ bên ngoài đi vào là hệ thống tường và cổng tam quan, vào tiếp nữa là hồ bán nguyệt và chiếc cầu cong bắc qua cầu. Qua cầu là đến sân chùa. Chùa gồm tiền đường, trung đường và hậu cung. Đây là loại kiến trúc theo kiểu tiền định nhất hậu đinh.

Tiền đường của chùa gồm 7 gian (5 gian chính và hai gian trái), 4 mái. Gian giữa rộng 3,45m, hai gian bên mỗi gian rộng 2,3m, hai gian tiếp mỗi gian rộng 1,7m và hai gian cuối (tức hai gian trái) mỗi gian rộng 1, 55m.

Trung đường của chùa dài 6,45m, rộng 6,8m (được làm theo địa hình sườn núi) được chia làm 3 gian: gian giữa rộng 3,45m, hai gian mỗi bên rộng 1,2m.

Hậu cung của chùa dựa hẳn vào vách núi rộng 3,45m và sâu chỉ có 0,85m là đến vách đá. Vách đá được đục chạm trực tiếp pho tượng A di đà (theo dạng phù điêu nổi chứ không phải tượng tròn) có kích thước lớn (rộng 3,1m, cao 6m). Đây là pho tượng đá được đục trực tiếp và vách đá có kích thước lớn nhất từ trước đến giờ ở Thanh Hóa.

Nhìn chung, quy mô kiến trúc của chùa Vồm có cấu tạo rộng, hẹp và sâu vào sát chân núi như đã nêu trên đều dựa theo địa hình của chân và vách núi để làm. Vì vậy, đứng từ ngoài vào ở một số góc độ, chúng ta có cảm tưởng như chùa nằm lọt trong lòng vách núi.

Chùa làm theo kiểu mái công, các tàu mái có tác dụng làm cho kiến trúc chùa mềm mại, uyển chuyển và bay bổng trong không gian ở nơi chân và sườn núi. Bờ nóc được trang trí hình mặt trời.

Kết cấu vì kèo theo kiểu kết hợp giữa giá chiêng, kẻ chuyền và chồng giường. Các vì kèo liên kết với nhau bằng đường xà thượng và xà hạ, tạo thành bộ khung vững chắc để đỡ toàn bộ phần mái. Đặc biệt trong các thành phần cấu trúc giữa xà thượng, xà hạ và hiên chùa là các bức ván nong. Hầu hết các ván nong đều chạm trỗ hoa sen, cúc, vân mây, rồng phượng, rùa ngậm hoa sen,… Nghệ thuật trang trí mang phong cách thời Lê đã được trùng tu, tôn tạo ở giai đoạn này, thậm chí đến thời Nguyễn, chùa này vẫn được sửa và nâng cấp.

Tháp vàng 9 tầng được dựng từ thời Lê đến nay không còn nữa. Ở phía sau bên phải, chùa vẫn còn tấm bia của vua Lê Hiển Tông và một số bút tích của các tạo nhân mặc khách. Ở phía bên trái chùa còn có một tháp đá (tức xá lị) có 4 mái, tất cả đều làm bằng đá, đỉnh tháp đội hoa sen. Bệ chân tháp như tòa sen và làm kiểu tam cấp cả 4 mặt.

Hai bên sân chùa là nhà tổ và nhà tiếp khách mới được làm lại. Xưa kia cần qua hồ bán nguyệt là cầu đá cong, nhưng bây giờ là cầu cong xi măng. Còn Cổng tam quan cũng là công trình mới được phục hồi và tôn tạo.

Cách bài trí trong chùa: hậu cung là tượng A Di Đà (cao 6m, rộng 3,1m) được khắc đúc trực tiếp vào vách đá theo kiểu phù điêu trông rất bề thế. Và nhà hậu cung cũng phải làm cao hơn theo chiều cao của tượng. So với những ngôi chùa khác thì ở đây không thấy có tượng tam thế (quá khứ, hiện tại, tương lai) và tướng hộ pháp. Bệ thờ trước tượng A Di Đà đặt tòa cửu long. Hai bên tả hữu nhà trung đường còn bài trí tượng thần linh, thổ địa. Với tổng số lượng còn lại ở trong chùa là 13 pho thì có 6 pho tượng mẫu được bài trí ở phía tay trái chùa (tính từ ngoài vào).

Theo các cụ cao niên, chùa có rất nhiều pho tượng và đồ thờ. Nhưng những biến cố lịch sử và sự nhận thức ấu trĩ một thời đã qua của con người đã làm mất đi nhiều báu vật vô giá ở nơi đây. Rất may là nhiều hiện vật được phân tán trong dân trước đây dần dần được trả lại như hương án, lư hương, bát hương đá,…

Các hiện vật trong di tích:

Hiện nay, vẫn còn giữ được nhiều hiện vật quý, bao gồm:

Một tượng phù điêu đá A Di Đà cao 6m, rộng 3,1m được đục khắc trực tiếp vào vách đá ở hậu cung chùa là một tác phẩm kiến trúc nghệ thuật điêu khắc đá (thế kỉ XVII) độc đáo và vô cùng giá trị. Chính pho tượng này đã làm cho ngôi chùa vàng nổi tiếng hơn.

13 pho tượng cổ còn lại đều bằng chất liệu gỗ, trong đó có 6 pho tượng mẫu. Đây cũng là những hiện vật có giá trị về mặt điêu khắc. Tượng mới ở chùa này hầu như không có.

Một số bát hương cổ, lư hương đồng, lư hương đá, bát hương đá (có cả loại to, loại nhỏ).

Bức đại tự cổ ghi 3 chữ “Đại Hùng tự”.

Một số bài thơ và bút tích khắc ở vách núi gần chùa, trong đó có bài thơ của Lê Hiến Tông.

Các dụng cụ đồ thờ như mâm bồng, giường thờ bằng gỗ,…

Hình ảnh Chùa Vồm và núi Bàn A

Chùa Vồm và núi Bàn A

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật